- Các phản xạ điều hòa huyết áp : rất nhanh
nhạy , chính xác
-
Phản xạ
điều hòa huyết áp xuất phát từ các receptor nhận cảm áp suất tại quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh
. Huyết áp tăng làm căng thành mạch-> tác động vào receptor tạo xung động
theo dây Hering về hành não -> kích thích trung tâm dây X à xung động truyền ra theo dây X đến tim làm tim đập chậm yếu , giãn mạch
à hạ huyết áp
-
Phản xạ điều áp xuất phát từ các receptor nhận
cảm hóa học ở thân động
mạch cảnh và động mạch chủ . Khi huyết áp giảm , nồng độ O2 máu giảm hoặc CO2
và H+ máu tăng à kích thích các receptor này à phát sinh xung động theo dây Hering về hành não kích thích trung tâm co
mạch làm tăng huyết áp . PX này chỉ có tác dụng khi huyết áp < 80 mmHg
-
Phản xạ điều áp do tình trạng thiếu máu tại trung
tâm vận mạch : khi máu đến
trung tâm vận mạch giảm -> các nơ ron tại đây thiếu dinh dưỡng -> hưng
phấn mạnh làm tim đập nhanh mạnh và co mạch làm tăng huyết áp . Nguyên nhân có
lẽ vì thiếu O2 làm tăng CO2 , acid lactic và acid khác…à kích thích vào trung tâm vận mạch và hệ giao cảm.
b. · Các
ion và chất khí :
-
Ca2+ tăng → co mạch do Ca2+ kích
thích co cơ trơn (hoạt hoá Myosin ATPase làm cho sợi myosin và sợi actin trượt
vào nhau) gây tăng huyết áp.
+
Thuốc chẹn kênh canxi (Dihydropyridine,
Phenylalkyl, Benzo thiazepime) được dùng để hạ huyết áp.
-
K+ tăng → giãn mạch do ức chế co cơ
do đó có tác dụng hạ huyết áp.
-
Mg2+ tăng → giãn mạch do ức chế co cơ
trơn có tác dụng hạ huyết áp.
+
Lâm sàng: thuốc Panagin(K+ và Mg2+) được dùng
trong điều trị suy tim.
-
Nồng độ O2 ở mô giảm, nồng độ CO2
tăng làm giãn mạch (tăng trao đổi khí ở mô và ngược lại. Khi lao động , chơi
thể thao, giãn mạch cơ vân do nhu cầu sử dung O2 tăng.
Nguồn Bác sĩ đa
khoa