1. Rong kinh:
Là hiện hượng ra huyết từ tử cung
có chu kì, kéo dài trên 7 ngày. Rong huyết là hiện tượng ra huyết từ tử cung
không có chu kì, kéo dài trên 7 ngày. Đó là quan niệm kinh điển, coi hiện tượng
ra huyết có chu kì từ tử cung ra ngoài là kinh nguyệt. Cho đến nay quan niệm đó
vẫn được giữ, mặc dầu có nhiều hiện tượng ra huyết không có chu kì, vẫn mang
tính chất chảy máu, cơ chế chảy máu như chảy máu kinh nguyệt, nghĩa là bong
niêm mạc tử cung dưới ảnh hưởng của sự tụt các hormone sinh dục nữ : estrogen
hoặc cả estrogen và progesterone. Hiện tượng kinh nguyệt không đều này hay gặp ở
những người phụ nữ quanh tuổi mãn kinh. Người ta hay phân biệt rong kinh rong
huyết ở tuổi trẻ, ở tuổi hoạt động sinh dục
và ở tuổi tiền mãn kinh, lý do là mỗi thời kì này có những đặc thù riêng.
Rong kinh, rong huyết ở tuổi trẻ,
thường quen gọi là rong kinh dậy thì vì thông thường hay gặp vào tuổi dậy thì,
cơ chế chảy máu của kinh nguyệt, ra máu kéo dài, máu nhiều và tươi, hay bị đi bị
lại. Nhưng để tôn trọng qui định chung , chúng ta nên gọi là rong kinh rong huyết
tuổi trẻ.
2. Nguyên
nhân:
Trước kia người ta cho rằng cường
estrogen do tồn tại nang noãn ( nang noãn hoạt động kéo dài, không vỡ, không
phóng noãn) làm cho niêm mạc tử cung quá sản tuyến nang. Ngày nay, người ta thấy
estrogen có thể bình thường, mặc dầu cũng có thể cao. Cơ bản là do FSH và LH
không đầy đủ để kích thích buồng trứng, nguyên nhân từ rối loạn hoạt động vùng
dưới đồi, hoạt động chưa thuần thục, chế tiết chưa đầy đủ Gn-RH. Hậu quả thường
là gia đoạn hoàng thể kém hoặc không phóng noãn, không có giai đoạn hoàng thể.
Progesteron bảo vệ hệ thống vùng dưới đồi-tuyến yên hoạt động không hoàn chỉnh.
Đương nhiên còn nhiều sự kiện khác có ảnh hưởng tới như bản thân cấu trúc vùng
này, ảnh hưởng của các bệnh cấp tính, mạn tính, thay đổi huyết học, thần kinh
căng thẳng.v.v..
3. Triệu
chứng:
Kinh nguyệt kéo dài, thường là huyết
tươi, xảy ra sau một vòng kinh dài (chậm kinh), nhiều khi dẫn tới thiếu máu.
Khám thực thể đôi khi đem lại những dấu hiệu không chính xác như tử cung to mềm,
cổ tử cung hé mở, khiến người thầy thuốc liên tưởng đến dọa sẩy thai, nhất là sau một vòng kinh dài
xem như chậm kinh.
4. Điều
trị:
Bước đầu tiên là phải loại trừ những
nguyên nhân ác tính sau đó mới đặt vấn đề điều trị cầm máu, bằng:
4.1.
Nạo bằng hormone:
Tiêm
6-7 ngày, mỗi ngày 20-25 mg Progesteron , hoặc uống progestin liều tương đương.
Có thể cho thêm estrogen như Mikrofollin, Lynoral, mỗi ngày 0,05 mg, huyết sẽ cầm, ngừng thuốc 2,3
ngày sẽ ra huyết trở lại, niêm mạc tử
cung bong triệt để. Vì thế có tên gọi là nạo bằng thuốc, nạo bằng hormone. Thời
gian và lượng máu khi ra huyết trở lại tương tự như kinh nguyệt của người bình
thường.
4.2.
Đề phòng rong kinh trong vòng kinh sau:
Cho
tiếp vòng kinh nhân tạo , có thể dùng estrogen cùng với progestin như kiểu viên
thuốc tránh thai kết hợp. Cũng có thể cho progestin đơn thuần vào nửa sau của vòng kinh nhưng
phương pháp này không đảm bảo chắc chắn có kết quả vì khó có thể tiên lượng được
vòng kinh tới sẽ dài bao nhiêu ngày để ước đoán ngày bắt đầu của nửa sau để cho
thuốc.
Có thể cho thuốc kích thích phóng noãn
như Clomifen citrate 5 ngày liền, từ ngày thứ 3 của vòng kinh, mỗi ngày 1-2
viên. Cách điều trị này nhằm tạo cho vòng kinh
có phóng noãn, có hoàng thể, có progestin nội sinh và niêm mạc tử cung sẽ
bong ngắn gọn hơn trong những ngày hành kinh.
Kết quả đạt tới 50 % các trường hợp.
Với cách điều trị như trên, kết hợp với thuốc
cầm máu, thường không phải nạo tử cung bằng dụng cụ. trong một số rất hạn hữu,
điều trị bằng mọi biện pháp nội khoa không hiệu quả mới nạo bằng dụng cụ. Để cầm
máu nhanh trong những trường hợp ra máu cấp, người ta có thể dùng loại estrogen phức hợp sulfat ( biệt dược
là permarin) tan trong nước, có khi chỉ sau 15 phút là cầm máu. Nhưng sau khi cầm
máu vẫn phải điều trị bằng hormon để tránh ra huyết ồ ạt trở lại khi ngừng thuốc.
Dùng thuốc tránh thai để đề phòng rong kinh tuổi trẻ trong những
vòng kinh sau nên cho thuốc 3 tháng liền. Sau đó ngừng thuốc để chờ trả lời của
hiệu ứng nhảy vọt ( rebound effect). Nếu trong thời gian không dùng thuốc, kinh
nguyệt trở lại bình thường thì thôi không dùng tiếp. Nếu kinh nguyệt lại hỗn loạn,
rong kinh vẫn xảy ra, lại tiếp tục điều trị như trên 3 tháng nữa. Chú ý mỗi
tháng uống thuốc 3 tuần, có thể chỉ dùng thuốc trong 10 ngày của mỗi vòng kinh,
có thể tập dượt hoạt động, chứ không bị ức chế hoàn toàn như trong phương pháp
dùng cả tháng. Hơn nữa, người bệnh có thể đến với thầy thuốc chậm hơn, sau khi
kinh nguyệt đã sạch, người thầy thuốc có điều kiện để nắm tình hình mà điều chỉnh
phương pháp điều trị.
5. Tiên
lượng:
Những em bé bị rong huyết trong tuổi
trẻ có tỷ lệ bị vô kinh thứ phát cao hơn bình thường, vòng kinh không phóng noãn, vô sinh khi đã lớn tuổi. vì thế cần
phải theo dõi cẩn thận trong một thời gian dài, mặc dù có thể không có biểu hiện
lâm sàng gì bất thường. Đặc biệt, cần điều trị sớm rong kinh, rong huyết ,
tránh để mất máu kéo dài , dẫn tới suy vùng dưới đồi tuyến yên không hồi phục trong hoàn cảnh vốn đã kém hoạt động.
6. Rong
kinh rong huyết tiền mãn kinh.
Nhiều
khi gọi tắt là rong kinh tiền mãn kinh. Thực ra, có thể ban đầu là rong kinh, về
sau huyết ra kéo dài, chảy máu không còn theo cơ chế kinh nguyệt nữa mà do
thương tổn (viêm) ở niêm mạc tử cung và là rong huyết.
Khá
phổ biến. Rối loạn về lượng kinh như thiểu kinh, cường kinh, rối loạn về chu kì
kinh như mau kinh, kinh thưa đều có thể gặp.
Tất
cả những trường hợp rối loạn kinh nguyệt tiền mãn kinh đều phải nghi ngờ có
nguyên nhân ác tính. Phải khám phụ khoa chu đáo ( soi tử cung, làm phiến đồ khối
u, nạo sinh thiết niêm mạc tử cung, sinh thiết cổ tử cung...) là điều không thể
bỏ qua. Ung thư có thể xuât phát từ cổ tử cung, từ niêm mạc tử cung, từ buồng
trứng, từ âm đạo. Chỉ sau khi đã loại trừ nguyên nhân ác tính mới được điều trị
triệu chứng.
Trong
rong kinh tiền mãn kinh, sinh thiết niêm mạc tử cung phần lớn ( có tới 90 %)
cho hình ảnh phát triển,chỉ dừng 10 % có hình ảnh chế tiết. Hình ảnh quá sản
tuyến nang của niêm mạc tử cung gặp nhiều nhất gấp 10 lần so với lứa tuổi 20-45
tuổi.
Trong
giai đoạn sau mãn kinh, hay gặp hình ảnh niêm mạc tử cung teo , niêm mạc tử
cung không hoạt động.
Những
khối u lành tính và ác tính gây rối loạn ra huyết có tỉ lệ khác nhau tùy theo lứa
tuổi. Trong tiền mãn kinh, tỉ lệ u xơ cơ tử cung, polyp cổ tử cung, ung thư
niêm mạc tử cung 1-2%. Các khối u lành tính ngày càng ít gặp sau khi đã mãn kinh và chuyển sang các khối u ác
tính ngày càng tăng.
Điều
trị triệu chứng rong kinh, rong huyết tiền mãn kinh tốt nhất là nạo niêm mạc tử
cung. Có 3 lợi ích rõ rệt : cầm máu nhanh, đỡ để mất máu kéo dài, có được mảnh
niêm mạc tử cung để thử giải phẫu bệnh lý, xác định rõ ràng tình trạng quá sản niêm mạc tử cung để có hướng
sử dụng hormone tiếp theo.
Ngày
nạo niêm mạc tử cung được coi là ngày đầu của vòng kinh tới. Nếu có dùng
hormone thì lấy ngày đó làm mốc. Thông thường nên cho progestin từ ngày thứ 16, mỗi ngày 10 mg. Uống trong 3 vòng kinh liền như thế, kết quả bao giờ cũng tốt,
nếu như không có tổn thương thực thể kèm
theo. Sau khi ngừng thuốc 2-3 ngày, người bệnh sẽ hành kinh trong 3-4 ngày, lượng
kinh không nhiều.
Chú
ý, không bao giờ nên cho progestin ngày sau nạo
như một số thầy thuốc làm với ý đồ và hi vọng làm teo niêm mạc tử cung
ngay sau nạo, vì rất hay có nguy cơ gây băng huyết.Nếu chẳng may chót gây băng
huyết bằng progestin sau nạo thì nên cho tiếp ngay estrogen như 1-2 viê
Mikrofollin hoặc estradiol tiêm, cầm máu nhanh.
Có
một số tác giả đưa ra kết quả khả quan sau khi dùng testosterone điều trị rog
kinh tiền mãn kinh, giúp chóng mãn kinh hoàn toàn. Theo kinh nghiệm, chúng tôi
thấy ở Việt Nam, vệc chỉ định sử dụng hormone nam cho phụ nữ tiền mãn kinh
không đáng ngại như ở châu Âu, không sợ xuất hiện những dấu hiệu sinh dục phụ của
nam giới. Ngoài ra, testosterone cũng giúp cho chuyển hóa tốt, góp phần nâng cao thể trạng người bệnh.
Bên
cạnh những thuốc và biện pháp nói trên, thuốc co tử cung như oxytocin ,
ergotamine cần được lưu ý dùng sớm và thường chỉ có lợi. Các thuốc giúp cầm máu
như EAC, vitamin K, canxi cung góp phần cầm máu , như sắt, vitamin A, B cũng có
ích.
7. Rong
kinh rong huyết trong độ tuổi sinh đẻ ( 18-45 tuổi)
7.1.
Cường kinh:
Kinh
nhiều so với kinh nguyệt bình thường, hay kèm theo với rong kinh. Nếu huyết ra
nhiều quá, trên 200 ml/ngày, ảnh hưởng tới toàn trạng, mạch nhanh, huyết áp tụt
thì gọi là băng kinh.
Nguyên
nhân phần lớn do có tổn thương thực thể ở tử cung như u xơ tử cung, polip buồng
tử cung, lạc nội mạc tử cung tại cơ tử cung không co bóp được, làm niêm mạc tử
cung khó tái tạo nên khó cầm máu. Cũng có thể do tử cung kém phát triển, tử
cung đổ sau gây ứ máu tĩnh mạch và chảy máu nhiều. Bệnh nội khoa cũng có thể
gây cường kinh như cao huyết áp, rối loạn đông máu, bệnh thận. Cường kinh cơ
năng ít gặp hơn. Có thể do tan cục huyết, tan sợi huyết tại chỗ.
7.2.
Điều trị:
Ở
người trẻ tuổi, nếu cường kinh do tử cung co bóp kém, có thể cho dùng thuốc co
tử cung như ergotamine,, prostaglandin ngậm dưới lưỡi. Nếu cường kinh do kém
phát triển tử cung thì sau đẻ sẽ trở lại
bình thường. Nếu như không có thai, có thể cho estrogen kết hợp với
progesterone như kiểu viên thuốc tránh thai. Nếu sợ thuốc tránh thai sẽ gây vô
sinh nhân tạo cho người bệnh sau điều trị lâu dài thì có thể cho thuốc tránh
thai vào nửa sau của chu kì kinh, theo kinh nghiệm của chúng tôi, không những
không có tác dụng tránh thai mà còn tạo điều kiện cho tử cung phát triển, chống
lại cường kinh.
Ở
người đứng tuổi, nếu có tổn thương thực thể nhỏ, chưa đáng chỉ định phẫu thuật
( u xơ tử cung nhỏ, lạc nội mạc tử cung nhỏ), có thể dùng progestin liều cao để
gây mất kinh trong 3-4 tháng liền.
Đối
với người trên 40 tuổi, nếu điều trị bằng thuốc không kết quả , có thể đặt vấn
đề mổ cắt bỏ tử cung.
8. Rong
kinh do chảy máu trước kinh:
Trước khi hành kinh chính thức, người
phụ nữ có ra huyết một số ngày, lượng huyết ra ít hơn, khiến kì kinh dài. Như vậy,
vòng kinh như ngắn lại.
Nguyên nhân có thể do có tổn thương
thực thể như viêm niêm mạc tử cung, polip buồng tử cung. Nhưng cũng có thể do
giai đoạn hoàng thể teo sớm, progestin giảm nhanh. Phát hiện bằng cách lấy thân
nhiệt cơ sở vào các sáng sớm, thấy thân nhiệt giảm sớm.
Điều trị: Đối với người trên 35 tuổi,
nên nạo tử cung vì riêng nạo tử cung bản thân nó cũng có thể điều trị khỏi người
bệnh, như trong trường hợp viêm niêm mạc tử cung chẳng hạn, đồng thời lại có được
mảnh niêm mạc tử cung để thử giải phẫu bệnh lý, đánh giá được tổn thương thực
thể nếu có và kiểm tra được ác tính.
Điều trị bằng thuốc,dùng progestin
từ ngày thứ 20- 26 của vòng kinh, mỗi ngày 10 mg Duphaston. Cũng có thể dùng kết
hợp estrogen và progestin như viên thuốc tránh thai kết hợp Ovidon, Egevidon (D-norgestrel
and Ethinylestradiol), Choice, Marodon vì trong nửa sau của những vòng kinh này
không những thiếu progesterone mà còn thiếu cả estrogen, kết quả cũng tương tự.
9. Rong
kinh do chảy máu sau kinh:
Sau khi sạch kinh được 1-2 ngày,
người phụ nữ lại ra huyết một vài ngày, huyết ít. Nguyên nhân thực thể không hiếm
( có thể do viêm niêm mạc tử cung, u xơ tử cung, polip buồng tử cung, u ác tính
trong buồng tử cung...). Nguyên nhân cơ năng có thể do niêm mạc tử cung có những
vùng bong chậm hoặc có những vùng tái tạo chậm. Bong chậm là do hoàng thể thoái
triển chậm nên estrogen và progesterone xuống chậm. tái tạo chậm là do nang
noãn chưa kịp chế tiết đủ estrogen. Phân biệt bằng cách lấy thân nhiệt sáng sớm.
Nếu thấy trong khi máu ra lại, nhiệt độ đã xuống thấp là do estrogen thiếu.
Điều
trị : trước hết là loại trừ nguyên nhân thực thể. Nếu có nguyên nhân thực thể
thì giải quyết nguyên nhân thực thể. Nếu do hoàng thể kéo dài thì cho progestin
hoặc estrogen kết hợp progestin vào các ngày 20-25 của vòng kinh. Sau khi ngừng
thuốc vài ngày , niêm mạc tử cung sẽ bong gọn và không rong kinh. Nếu do niêm mạc
tử cung tái tạo chậm, có thể cho Mikrofollin
0,05 mg, mỗi ngày 1-2 viê trong các ngày 3-8 của vòng kinh.
10.Rong kinh do quá sản tuyến nang
niêm mạc tử cung:
Kinh
chậm, ra nhiều huyết kéo dài. Niêm mạc tử cung dày, có khi tới 3-5 mm, có khi
có nhú nhỏ dài hoặc phình ra dạng polip, trong mượt như nhung. Qua kính hiển vi
không thấy hình ảnh chế tiết của niêm mạc tử cung, thiếu lớp xốp của niêm mạc.
Các tuyến hình thẳng, đôi chỗ phình to ra trông như miếng phomat cắt ngang ( có
những lỗ hổng). trong mô liên kết có các sợi to. Trong các tuyến không có
glycogen. Các mạch máu chỉ có một lớp nội bì, chính là tĩnh mạch giãn to thành xoang,
chèn ép vào các ống tuyến làm cho các ống này phình to. Các tiểu động mạch xoắn
ốc cũng phát triển. vì các hệ tĩnh mạch phình nên tạo cho niêm mạc tư cung một
hình dạng lạc chỗ.
Nguyên nhân : Người ta thấy tình trạng
estrogen tác dụng kéo dài dẫn tới hình ảnh estrogen lỗ chỗ của niêm mạc tử
cung. Khi nồng độ estrogen dao động hoặc độ nhậy cảm với estrogen không còn đủ
đảm bảo duy trì niêm mạc tử cung khiến niêm mạc tử cung bong từng chỗ gây chảy
máu, bong lâu hết, gây rong kinh. Vì niêm mạc tử cung có nhiều xoang mạch nên
chảy máu nhiều.
Kiểm tra buồng trứng người ta không
thấy có hoàng thể. Tình trạng estrogen tác dụng kéo dài được qui cho là có tồn
tại nang noãn
Điều trị :
Chắc chắn nhất là nạo niêm mạc tử
cung. Có tới 50 % khỏi được một thời gian dài. Số còn lại tiếp tục điều trị thuốc.
Đối với người trên 40 tuổi có thể
dùng testosterone tiêm 25 mg/ngày trong 8-10 ngày , có thể làm teo niêm mạc tử
cung ( hoạn bằng hormone).
Phương pháp chạy tia X nhằm làm teo
buồng trứng ngày nay không còn dùng nữa. Trong mọi trường hợp, nên điều trị thử
bằng progestin trong nửa sau của vòng kinh, từ ngày 16 của vòng kinh ( có thể từ ngày thứ 14-15)
từng đợt 3 thagns. Nghỉ thuốc, theo dõi vài tháng. Nếu thấy kinh nguyệt bình
thường thì thôi dùng thuốc. Nếu không có kết quả, lại dùng tiếp. tuy nhiên,
không nên điều trị bằng thuốc kéo dài đối với những người trên 40 tuổi mà nên
có chỉ định mổ cắt tử cung, nếu sau hai năm điều trị bảo tồn không có kết quả.
Nguồn Bác sĩ đa khoa